Ghe xuồng ở Nam Bộ

   GHE XUỒNG Ở NAM BỘ                                                                                                   
Nguyễn Thanh Lợi
                                                                                                                    (sưu tầm)
(Bài đã đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 2005)

Ghe xuồng ở Nam Bộ có vị trí rất quan trọng trong việc giao thông đường thuỷ, ở một địa bàn mà mạng lưới sông ngòi, kênh rach chằng chịt. Việc sử dụng ghe xuồng làm phương tiện đi lại, vận chuyển đã trở thành nét độc đáo trong đời sống của cư dân vùng này. Có thể nói, cư dân miệt sông nước ra đến ngõ là gần như phải đi xuồng. Ngay từ thưở đi khai hoang của cha ông ta, việc đi lại bằng đường thuỷ vẫn tiện lợi và an toàn nhất.
Sách Gia Định thành thông chí mô tả:”Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc đi chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông ngày đêm qua lại, sỏng xuồng liên tiếp”
1.Đặc điểm phân loại
    Ghe xuồng ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động ta có thể tạm phân chia thành những loại khác nhau.
Huỳnh Tịnh Của định nghĩa về xuồng như sau:”Ghe nhỏ, ghe làm chơn, thường dòng theo ghe lớn”. Về xuồng, ta thấy có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng chèo, xuồng máy…
Xuồng ba lá có chiều dài trung bình 4m, rộng 1m, sức chở từ 4-6 người. Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng 5 lá.
Xuồng tam bản giống như ghe câu, nhưng lớn hơn, có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có thể là 5, 7, hoặc 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại trên sông rạch.
Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để đi câu tôm, câu rổi hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá.
Tam bản xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan”.
Ghe tam bản, xuồng bơi, xuồng chèo ở Cần Thơ đều là hai chèo, ba chèo, bốn chèo. Không phải một một chèo lái, một chèo mũi như ở các vùng khác.
Xuồng vở gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản (giàn đà, cong và ván be), kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) do người Khơme làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Campu chia và Lào.
Xuồng câu tôm: giống kiểu kiểu ghe độc mộc của người Khơme dùng giăng câu thả lưới ở ven sông cạn rạch nhỏ.
Xuồng bơi (2 mái chèo) lớn hơn xuồng tam bản.
Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
Về ghe dùng để vận chuyển hàng hóa thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày.thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe trường đà.Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm.Trước năm 1945, hàng năm các lái buôn lớn từ miền Trung chở cá, mắm cá mòi, chủ yếu là nước mắm cá cơm của vùng Phan Thiết vào bán trong Nam, rồi mua gạo thóc chở ra bằng loại ghe này.
Ghe cửa: nhỏ, mũi nhọn, nhảy sóng tốt, chạy buồm vững vàng; có thể ra vào các cửa sông dễ dàng, hay chở hàng đi men theo bờ biển.
Ghe lồng (hay ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ biển.
Ghe hàng bo là loại ghe lồng nhỏ, đi đường ngắn trong nội địa
Ghe giàn : có kích thước khá lớn, hai bên hông trổ cánh cao để chở được nhiều hàng hóa
Ghe be không mui hoặc có mui nhỏ chệch về phần lái khoảng 1/4 chiều dài của ghe, có thêm hai ghe bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hóa, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe.
Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150-200 tấn, loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than củi.
“Chài” xuất xứ từ tiếng “Pok chài” của người Triều Châu, Pok: nhiều, chài: tải, ghe chài là loại ghe có sức tải lớn.
Theo Vương Hồng Sển, ghe chài gọi đầy đủ là ghe bốc chài, gốc từ tiếng Khơme “tuk pokchay”, tuk: ghe, thuyền (Khơme); pokchay: chở nhiều (Triều Châu)
Ghe cà vom: nhỏ, dài, có mui nhỏ nhưng khác ghe lườn và ghe ngo.
Ghe cá, hay còn gọi là ghe rỗi ,chuyên chở sá đồng từ miền Tây về Sài Gòn. Đặc biệt mực nước trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên ngoài để giữ cá luôn sống và ghe cũng luôn vững. “Anh đi ghe cá mũi son, để em đan đệm cho mòn mười ngón tay”
Ghe bè to và sâu, giống như chiếc xà lan, có mái che, tải trọng lớn, người chèo có thể đi lại trên mui, dùng chuyên chở hàng hóa trên sông. Loại ghe to, mau bán tận Campuchia.
Ghe lưới :giống như chiếc thuyền độc mộc, thân dài, thon, mũi nhọn. Đây là loại ghe của người Khơme.
Ghe cào tôm: đầu mũi lài và khá phẳng, có bánh lái gặp bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm.
Ghe mỏ vạch: mũi vớt cao lên như cái vạch của thợ may.
Ghe cui: ngắn, mũi và lái tương đối bằng, không nhọn như các ghe khác. Dùng chở củi, lá lợp nhà.
Ghe ngo (tuk ngua): loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khơme, thường dùng trong bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài 10m trở lên. Ghe không mui, ở đầu mũi Chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở từ 20 đến 40 tay chèo, xếp thành hàng đôi, một người cầm lái và một người cầm mũi.
Ghe điệu: mũi lái chạm trổ, kèo mui thường sơn son thếp vàng, bên trong lót ván trơn bóng, có chỗ nấu nướng, đủ tiện nghi để hút á phiện cho giới nhà giàu.
Ghe hầu: sang hơn ghe điệu, dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. Một đoạn trích của Huỳnh Minh cho ta thấy hình ảnh của chiếc ghe hầu ngày xưa: “Khác với những ghe thường, ghe hầu được đóng vẻ đẹp đẽ, sang trọng hơn: sơn son thếp vàng, đầu rồng đuôi phụng, trước mũi hai chèo, mui ghe lộng lẫy, bên trong trang trí rất đẹp như một phòng khách trên nhà, nào chiếu bông nẹp điều, gối dựa vải màu sặc sỡ, đồ lệ bộ, ống điếu bình, văn án thấpv.v…Ban đầu chỉ có loại quan chức mới đi loại ghe này, về sau các nhà giàu có, dư dả cũng đua nhau sắm ghe hầu, như kiểu đổi Citroen con cóc để sắm Dodge hay Mercédes đi cho oai”
Ghe sai: còn gọi là ghe khoái, nhỏ, chèo nhẹ, dùng vào việc quan.
Ghe quyển: có mui che từ đầu đến cuối ghe, dùng để chở quân lính.
Ghe lệ hoặc ghe ô: dùng vận chuyển lính hay quân cụ. Những chiếc dành cho chỉ huy thường được chạm trổ toàn thân rất tinh xảo. Loại này thường được sơn đỏ nên cũng gọi là ghe son hay ghe vẹm.
Ghe trẹt (trẹt): không mui, đáy bằng, hai đầu ghe đều bằng để chở trâu bò.
Ghe vợi: ghe nhỏ, cột theo sau những chiếc ghe lớn để chuyển hàng hóa vào bờ.
Vỏ lãi: mũi ghe bằng, dài khoảng 9m, thành ghe thấp, bề ngang hẹp.
Tắc ráng: thường dài hơn vỏ lãi, mũi nhọn, chạy rất nhanh (chiếc Speedo do Kiên Giang Composite chế tạo có thể chạy đến 60km/giờ). Chiếc ghe đặc biệt xuất hiện từ năm cuối 1959 ở địa danh mà cả xóm, ấp, chợ và con rạch đều mang tên Tắc Ráng (nay là khóm Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản.
Ghe cửa Phú Quốc để chở thuỷ sản và mắm.
Ghe Cần Thơ: lớn, dài, tiện cho việc đi sông.
Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa- Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại: dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hóa đi biển hoặc trên các con sông lớn. Loại ghe có đặc trưng riêng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công Bình Đại (Bến Tre) đóng. Ngày xưa, vùng này có mối giao lưu mua bán với Mỹ Tho, Sài Gòn, Gò Công, Vũng Tàu, Bà Rịa, Phan Thiết. “Khác với ghe Cần Đước mũi ngắn, lườn rộng, ghe Vàm Láng (Gò Công) mũi nhọn mà cao, lườn dẹt, ghe Hòn (Phú Quốc) của miền tây mũi đứng, lườn rộng, thân dài, ghe của Bình Đại- thường được giới sông nước gọi là ghe số 14 mũi đen- cao vừa phải, lườn rộng, thân vững, đi biển hoặc chuyên chở trên sông đều tốt, chịu nhảy sóng, mạnh sức chở. Ghe cửa Bình Đại bánh lái đẹp và dài, có hai buồm, có trục cuốn, buồm đánh bằng lá buôn đan( tức một loại lá cọ, người ta quen gọi là đệm buồm) “
Ghe Cần Đước (Long An) dùng đánh bắt cá(đóng đáy, chài cá), chuyên chở hàng hóa trên các tuyến sông. Loại ghe lớn, chạy nhanh, chở khoẻ, có dáng đẹp, nhưng chỉ sử dụng tiện lợ tròn sông rạch vì lườn tròn, nhảy sóng kém. Mũi và lái đều nhọn và nhô cao, chậu mũi vàchậu lái cong tròn, bánh lái to và cao, cần lái nằm ngang quá mũi ghe. Ghe Cần Đước mũi sơn màu đỏ tươi, lườn màu xanh, hai mắt tròn xoe, tròn đen và to, thường gọi là “đôi mắt đảo mèo”
Ghe ai đỏ mũi trảng lườn
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em?
Ngoài ra, tuỳ vào mục đích sử dụng mà ghe xuồng ở Nam Bộ có những tên gọi khác nhau, như dùng để giăng câu thì gọi là xuồng câu; đánh bắt thì có ghe lưới, ghe đáy; đưa khách trên sông thì gọi ghe đò (đò ngang, đò dọc; đò chèo, đò đạp, đò máy) ; dùng buôn bán hàng hóa thì có ghe hàng…
2. Nghề đóng ghe
Từ cuối thế kỷ XVIII, ở đất Gia Định- Đồng Nai, ngành đóng và sửa chữa tàu thuyền đã ra đời, phục vụ cho nhu cầu vận chuyển đường thuỷ ngày càng lớn của vùng đất này.”Ở ngã
ba sông Nhà Bè thuộc huyện Phước Long, tục gọi phường Thương Đà, trước kia tàu thuyền của phương Bắc đến buôn bán, phàm thuyền bị nát, bị rò phải sửa chữa hoặc đóng thuyền mới, tất do chỗ này” “Luỹ cũ Trao Trảo ở huyện Long Thành năm Canh Tuất (1790) đầu đời trung hưng, đắp thành luỹ, đóng tàu thuyền”
Ở Nam Bộ có nhiều “lò” đóng ghe nổi tiếng, thành ra những trường phái riêng, có thể kể như: ghe Bình Đại, ghe Cần Đước, ghe Bà Rịa, ghe Phú Quốc…
Trước Cách mạng tháng Tám- 1945, tại Bình Đại có các trại ghe Bắc Hải ở Thọ Phú và ghe Đông Hải ở Phước Thuận chuyên đóng những ghe cửa lớn vận chuyển hàng hóa đi buôn với các tỉnh cực Nam Trung Bộ, nổi tiếng một thời. Thợ thủ công ở Vũng Luông (Thọ Phú- Thới Thuận) và vàm Bà Khoai là những nơi có tay nghề cao.
Tại Cần Đước đã hình thành nên hai trung tâm đóng ghe, một ở chợ Kinh và một ở vàm Cầu Nổi với những trại ghe tiếng tăm như Hiệp Phát, Hiệp Lợi, Trần Văn Chà (sau đổi là Tân Hưng) ở chợ Kinh; Năm Châu, Bảy Thạch…ở Phước Đông hay có thể kể thêm Hiệp Đồng, Hiệp Hoà ở Tân Tập (Cần Giuộc)
Từ đầu thế kỷ XX, nghề đóng ghe xuồng ở Cần Thơ đã phát triển. Lúc đầu chỉ vài hộ, rồi dần dần trở thành làng nghề, mang tính chuyên nghiệp, cha truyền con nối. Nổi tiếng nhất là ở Ngã Bảy (Phụng Hiệp). Ở Vàm Xáng, Phong Điền, thị trấn Cái Răng (Châu Thành) cũng là những làng nghề đóng ghe xuồng danh tiếng.
Ghe đóng ở Cần Thơ nổi tiếng kiểu dáng thanh mảnh, mũi nhọn, nhảy sóng tốt. Phong Điền là nơi chuyên đóng ghe hầu với kỹ thuật chạm trổ rất khéo.
Ở thành phố Hồ Chí Minh có làng đóng ghe cầu Rạch Ong nằm hai bên bờ rạch Ong, gần ngã ba của con rạch này và kinh Tẻ, thuộc địa bàn phường Tân Hưng (quận 7) và phường 1 (quận 8). Làng nghề này hình thành khoảng năm 1962, do những người thợ từ Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) mang đến. Trọng tải của loại ghe Cần Đước đóng tại đây có nhiều cỡ, khoảng từ 30-200 tấn. Gần đây, làng nghề chủ yếu đóng các loại tàu kéo, tàu ủi và xuồng thông với sức chở từ 500kg đến 3 tấn, và sửa chữa các loại ghe thuyền khác nhau.
Ở An Giang, nghề đóng ghe xuồng ngày càng phát triển ở một số làng xã như: Mỹ Hiệp, Mỹ Luông, Chợ Thủ (Chợ Mới), Bình Mỹ, Bình Long (Châu Phú). Ghe xuồng có giá rẻ, dễ mua sắm, kiểu dáng luôn được cải tiến.
Tại Bà Rịa- Vũng Tàu, các trại ghe tập trung chủ yếu ở Bình Châu, Phước Bửu, Long Hải, Phước Lễ, Phước Tỉnh, Phước Hải, Vũng Tàu…
Ở Vĩnh Long hiện còn vài trại ghe nổi tiếng, do cha truyền con nối nhiều đời, như trại ghe Năm Danh, Phước Thành, Năm Sên, Thanh Hải ở Trà Ôn; trại ghe Hòa Hiệp tại Cầu Mới; trại ghe ở ấp Thanh Tân và Thanh Khê xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm…
3.Phương thức hoạt động
Ngày xưa, việc lưu thông của ghe xuồng trên sông đã được nhà nước đặt thành những luật lệ với những quy định cụ thể:”phàm ghe thuyền đi bất luận gặp gió nước thuận hay nghịch, khi đi gần gặp nhau thì phải hô là “bát” (tục thường ghe đi phía tả gọi là “cạy”, đi phía hữu gọi là “bát”) thì ghe mình đi qua phía hữu, để cho thuận lái thuận sào dễ điều khiển mà tránh nhau. Nếu ghe nay đã hô “bát” mà ghe kia còn đi tới phía tả không tránh để cho đụng nhau hư hỏng, thì lỗi ấy về ghe không tránh kia. Lại trong trường hợp ấy có kẻ biện chiết chưa chịu khuất phục, thì phải xét ghe nào chở nhẹ hơn và đi thuận dòng nước, thừa thế ấy chạy mau phải đụng ghe kia, thì ghe ấy bị lỗi”
Khoảng từ 1920, chính quyền thuộc địa đã ra một “bài chỉ” ghe ở các tỉnh Nam Bộ, quy định ghe mỗi tỉnh có một con số riêng. Bài chỉ ấy lấy chữ đầu của 20 tỉnh ở Nam Kỳ ghép thành vần, rồi đặt số:
"Gia, Châu, Hà,
Rạch, Trà, Sa, Bến,
Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên,
Mỹ, Bà, Chợ, Vĩnh, Gò, Cần, Bạc "

Như vậy ghe Gia Định mang số 1, ghe Bến Tre có số 7, ghe Bà Rịa thì số 15…
Hoặc như ghe của các vùng cũng sơn màu nơi mũi ghe để phân biệt nhau
Thuyền Bắc Nam lui tới
Ghe đen mũi, ghe vàng mũi ra vào coi loà nước
Người Đông Tây qua lại
Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa chất ngất
(Ngô Nhân Tịnh)
Để đề phòng nạn cướp bóc diễn ra trên sông nước, chính quyền phong kiến đã có quy định rõ ghe thuyền phải có “đăng kiểm” để dễ bề kiểm soát:”ghe thuyền lớn nhỏ trong hạt, quan nha sở tại phải buộc khai báo tên họ làm số sách tra cứu rõ ràng, rồi khắc chữ đóng nơi đầu thuyền, người nào trái lệnh bị tội, và làm bộ tịch ghe thuyền để lưu chiếu. Từ đó người chủ bị cướp nhận thấy được kẻ cướp, chỉ tên ra tố cáo, truy nã, mà bọn ác ôn khiếp phục yên lặng cả”
Trước năm 1954, ở Nam Bộ các phương tiện máy móc còn ít, ghe xuồng đi lại chủ yếu là bơi, chèo. Ở các thị trấn, thị tứ đông dân cư thì có đò đạp, đò dọc đưa rước khách đi lại. Đò đạp, đò dọc thì đi theo chiều dài, khách có thể thuê bao trọn chuyến.
Gọi là “đò đạp” vì chiếc ghe thông thường di động trêm mặt nước do bơi, hoặc chèo bằng tay, nay được thay bằng động tác chân Những người phu đạp trên những tấm ván ghép trên một cái vòng tròn như chiếc guồng quay nước. Một chiếc đò có 4 người đạp. Đò đạp có tốc độ tương đương với đò chèo bằng tay, nhưng hành khách thích đi loại đò này hơn vì nó ít chòng chành. Chiếc đò thường được thiết kế thành 2 tầng. Tầng dưới được che kín, chủ yếu để chở hàng hóa. Tầng trên thông thoáng, dùng để thường ngoạn cảnh sông nước. Đò đạp thường chở khách ở cự ly gần, khoảng 10-20km, nước ít chảy, không có sóng to. Nghệ sĩ cải lương Tư Trang (tức Trần Hữu Trang) từng có thời gian làm phu đò chở khách từ Hương Điểm đi tỉnh lỵ Bến Tre.
Người miệt quê cấy hái xong, mùa màng nhàn rỗi hay có chuyện cần sắm sửa mua bán là đi đò dọc về thị xã. Con đò dài hơn mười lăm thước, chở được bốn năm chục người. Đi đò dọc là ta có thể hình dung được phần nào cuộc sống nơi miền sông nước. Đò dọc chạy rất đúng giờ, nhiều nhà xem đò chạy qua là có thể đoán được giờ giấc một cách chính xác. Khách đi đò cũng dễ thân quen nhau, cứ chuyện trò rôm rả suốt cả hành trình.Ven sông, mỗi nhà đều làm cho mình một bến nước nho nhỏ. Đó là nơi đón đò, nơi tắm rửa, giặt giũ, nơi hẹn hò của đôi lứa.
Có thể nói, ghe xuồng có mặt khắp mọi nơi, theo từng bước chân của người dân Nam Bộ, trên mọi “địa hình” của miền sông nước: từ nơi thị tứ đô hội cho đến chốn kinh cùng, từ đầu nguồn đến cuối bãi, nơi giáp nước, ngã ba sông, dọc ven biển…Người ta dùng ghe xuồng đi mua bán, thu hoạch nông sản, đánh bắt tôm cá trên sông cho đến đi thăm người quen, giỗ chạp, ma chay, cưới xin…Ngày nay tận dụng ưu thế đó, những con “thuyền văn hóa”, “thuyền bệnh viện” đã hoạt động khá hiệu quả nơi miền sông rạch này.
Một phương thức sinh hoạt kinh tế nhưng lại mang đậm dấu ấn của văn minh sông nước, đó là chợ nổi của miền Tây Nam Bộ. Người dân miền Tây đã tạo cho mình một phong cách sinh hoạt riêng, phù hợp với điều kiện đặc thù của tự nhiên nơi đây. Gần như ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều có chợ nổi: Ngã Bảy, Cái Răng, Phong Điền (Cần Thơ), An Hữu (Tiền Giang), Ngã Năm, Trà Men (Sóc Trăng), Năm Căn, phường 8, Thới Bình (Cà Mau), Long Xuyên (An Giang), Sa Đéc (Đồng Tháp)…Trong đó vang tiếng cả nước là chợ nổi Ngã Bảy (Phụng Hiệp, Cần Thơ) và chợ nổi Ngã Năm (Thạnh Trị, Sóc Trăng) trên kênh Quản Lộ. Ở chợ nổi bán người ta mua bán đủ thứ, từ trái cây, rau thịt, cá…cho đến hàng tiêu dùng, bán cả đồ ăn thức uống, gần như không thiếu thứ gì. Chợ nổi có lối tiếp thị trên trời, theo kiểu “treo gì bán nấy”. Trước mỗi ghe có một cây sào cao, trên đó treo những hàng hóa cần bán (dân địa phương gọi là bẹo). Chợ nổi cũng có những chợ dạng “chuyên doanh”. Chợ nổi An Hữu (Cái Bè, Tiền Giang) là chợ trái cây đầu mối lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Chợ Trà Men (Sóc Trăng) nổi tiếng với các mặt hàng lọp, lờ, lu, khạp…Chợ nổi thực sự là bức tranh đầy màu sắc của châu thổ sông Cửu Long.
4.Trong đời sống văn hóa
Ghe xuồng ở Nam Bộ cũng được phản ánh khá đậm nét trong nhiều từ điển. Chúng tôi thử làm một thống kê (chưa đầy đủ) để thấy được sự đa dạng, phong phú trong cách thức đặt tên theo chức năng, theo địa phương, theo chất liệu cấu tạo, theo màu sắc của loại hình phương tiện giao thông đặc biệt này.
Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của ghi 28 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe cửa, ghe bản lồng, ghe bất mãn, ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe chài, ghe lườn, ghe ngo, ghe vợi, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bổ.
Dictionnaire Vietnamien – Francais (1898) của Génibrel thống kê được 38 tên ghe: ghe bầu, ghe biển, ghe cửa, ghe nốc (ghe giã), ghe mành, ghe nang, ghe lồng, ghe lồng chón, ghe bốc chài, ghe trẹt, ghe giàn, ghe rập đáy, ghe cui, ghe cá, ghe rớ, ghe lườn, ghe vạch (mũi vạch, mỏ vạch), ghe câu, ghe rỗi, ghe đò, ghe hầu, ghe lê, ghe son, ghe vẹm, ghe ô, ghe hồng, ghe quyển, ghe diều, ghe mui ống, ghe giã vọng, ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe bản lồng, ghe khoái, ghe sai, ghe đại trường đà, ghe chiến, ghe nan. Trong đó có một số loại ghe không phải của (hoặc chỉ có) ở Nam Bộ như: ghe nốc, ghe mành, ghe nang, ghe giã vọng, ghe bầu, ghe đại trường đà.
Dictionnaire Vietnamien – Chinois – Francais (1937) của Gustave Hue chép 40 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bể (ghe biển), ghe bốc chài, ghe cá(ghe câu), ghe cui (ghe be), ghe cửa, ghe chiến, ghe diểu, ghe đại trường đà, ghe đinh, ghe đò, ghe guộc, ghe giã, ghe vọng, ghe giàn, ghe hầu, ghe hồng, ghe khoái, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe chón, ghe lườn, ghe mành (ghe biển), ghe mui ống, ghe nan, ghe nốc (ghe biển), ghe ngo, ghe quyển, ghe rập đẩy (ghe be), ghe rỗi, ghe rớ, ghe sai, ghe son, ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch (ghe mỏ vạch, mũi vạch), ghe vụn (ghe son), ghe nan.
Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais (1957) của E. Gouin cho ta 39 tên ghe: ghe bầu, ghe be, ghe bể (ghe biển), ghe bốc chài, ghe cá, ghe câu, ghe cui, ghe cửa, ghe chiến, ghe chiều, ghe giàn, ghe diểu, ghe đại trường đà, ghe đinh, ghe đò, ghe giã, ghe giã vọng, ghe hầu, ghe kẻ, ghe khoái, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe lườn, ghe mành, ghe mui ống, ghe nan, ghe nốc, ghe ngo, ghe quyển, ghe ô, ghe rỗi, ghe rớ, ghe sai, ghe son, ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch, ghe vẹm (ghe son).
Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) của Vương Hồng Sển cung cấp 32 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe nạn, ghe cửa, ghe bản lồng (ghe lồng), ghe bất mãn, ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe lườn, ghe be, ghe ngo, ghe vợi, ghe đò, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe điệu, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bổ, ghe bè, ghe chài.
Từ điển phương ngữ Nam Bộ (1994) do Nguyễn Văn Ái chủ biên đếm được 15 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bầu nóc, ghe be, ghe cà vom, ghe chài, ghe chài lớn, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe hầu, ghe lồng, ghe lườn, ghe mỏ vạch, ghe ngo. Đây là số tên ghe được ghi nhận ít trong số 5 cuốn từ điển trên và ít hơn trong thực tế rất nhiều.
Các từ ngữ liên quan đến chiếc ghe cũng được thể hiện khá rõ, chỉ riêng trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của đã có: ở ghe, đi ghe, về ghe, ra ghe, lui ghe, xuống ghe, coi ghe, đậu ghe, ghe guộc. Về tục ngữ thì có câu: Ghe không lái như gái không chồng.
Xung quanh chuyện ghe xuồng ở Nam Bộ đã để lại dấu ấn qua nhiều địa danh, chẳng hạn như: Nhà Bè, Cái Bè, Vũng Tàu, Rạch Tàu…
Nhà Bè vốn gắn liền với truyền thuyết Võ Thủ Hoằng (đọc trại thành Huồng), nhà giàu có, thường cho vay nặng lãi. Sau sợ bị trừng phạt nơi âm phủ bèn phát tích làm lành, dựng nhà bè nơi ngã ba sông, trên để gạo củi mắm muối cho khách lỡ đường. Truyền thuyết Thủ Huồng với môtip “du địa phủ” này, nay hãy còn để lại dấu vết ở chùa Chúc Đảo (thường gọi chùa Sau hay chùa Thủ Huồng), xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà.
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Trên sông La Ngà (Đồng Nai) và Long Xuyên (An Giang) trên sông Hậu nay là những nhà bè nuôi cá nổi tiếng, mà con cá basa đã đi vào thị trường nước Mỹ.
Theo Sơn Nam trong Bến Nghé xưa thì Cái Bè (Tiền Giang) vốn do ghe bè, một loại ghe lớn, tụ tập mua bán lên Campuchia mà thành tên đất. Cái trong từ cổ chỉ sông rạch.
Vũng Tàu (Bà Rịa- Vũng Tàu), Rạch Tàu (Cà Mau) là những nơi tàu thuyền thường trú đậu.
Trong diễn xướng dân gian Nam Bộ, hò sông nước chiếm một vị trí quan trọng. Liên quan đến việc đi lại trên sông nước có thể kể ra như những điệu hò như: hò chèo ghe, hò mái đoản, hò mái nhì, hò mái trường, hò khoan, hò mái ố, hò Đồng Tháp, hò Sông Hậu…Có những câu tư duy nghệ thuật dân gian đạt đến mức táo bạo:
Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
Gắn với ghe xuồng còn có nhiều bài vè mô tả lại các hoạt động sản xuất, mua bán: Vè đánh lưới, Vè đi biển, Vè lái rỗi, Vè đường sông Lục Tỉnh, Vè thương hồ…
Đua ghe là một trò chơi giải trí mang tính cộng đồng không thể thiếu được ở miền Tây Nam Bộ. Hoạt động này thường diễn ra vào dịp Tết, dịp lễ, cúng đình…Người ta thường tổ chức đua ghe giữa các thôn ấp với nhau. Ghe đua của người Việt là loại ghe be, ghe trảng lườn. Trong khi đó ghe đua của người Khơme lại là ghe ngo.
C. Lemire trong tác phẩm Cochinchine Francaise et Royaume de Cambodge (1884) của mình đã mô tả lại cảnh đua thuyền độc mộc đầy náo nhiệt trên sông Sài Gòn vào cuối thế kỷ XIX. Đây chính là những cuộc đua ghe ngo hào hứng mà ta thường thấy trong các dịp lễ Óoc-om-bóc ở Sóc Trăng. Đọc lại đoạn trích này để thấy được sức sống mãnh liệt của một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đậm đà bản sắc của dân tộc Khơme, mà đã có một thời người ta phục hồi lại ở thành phố Hồ Chí Minh những năm đầu 90 của thế kỷ trước.”Mỗi năm ở Sài Gòn vào ngày 15 tháng tám có đua ghe kỳ lạ. Trên sông Sài Gòn bề ngang từ ba đến bốn trăm mét vắt ngang qua thành phố, khoảng 20 ghe độc mộc dài, thon có treo cờ: ở đằng đầu sừng sững một đầu rồng bằng cáctông với sừng và râu dài bằng dây sắt, ở đằng sau là hình cái đuôi của con quái vật. Các thuyền độc mộc này hẹp đến nỗi hai người chỉ có thể ngồi đối diện nhau trên một cái băng nhỏ (…). Ba chục người ngồi ép sát nhau trên các ghe mảnh mai này và chờ lệnh. Một phát đại bác từ soái hạm được bắn đi, chuông trống đáp lại và các ghe lướt trên sóng thi đua chèo nhanh. Các bạn tưởng đâu là những con rắn, rất quái đản lướt trên nước. Các tay chèo mình trần đến thắt lưng, màu da hơi xanh xanh màu ô liu, bắp thịt nổi vồng; (...)Âm thanh của các nhạc cụ xa lạ này, những tiếng la thét này làm người ta liên tưởng đến các cuộc tấn công của giặc cướp rất thường xảy ra ngày trước trên các sông lớn này (…)
Một khía cạnh văn hóa liên quan đến ghe xuồng đó là tín ngưỡng xung quanh loại phương tiện giao thông thuỷ đặc biệt này. Người đóng ghe thì có lễ cúng ghim lô, cúng khai nhãn, cúng hạ thuỷ, đại khái cầu cho mọi việc được hanh thông. Người sử dụng ghe thì cúng ở đầu mũi ghe cầu cho mua mai bán đắt (dân thương hồ), đánh bắt được nhiều cá tôm (nghề hạ bạc), chở khách được an toàn (dân tàu đò)…
Đặc biệt mắt ghe là một biểu tượng văn hóa cần được giải mã. Mắt ghe từ TP.Hồ Chí Minh đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là mắt tròn, tròng đen, nhãn trắng, mang ghe được trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng chạy xung quanh.
Nhìn chung, sự khác biệt về hình dáng, màu sắc, đường nét của các con mắt thuyền ở từng vùng miền là do thị hiếu thẩm mỹ, trình độ tay nghề của những người thợ đóng ghe thuyền và phong cách này cũng thường mang tính ổn định. Mắt ghe thuyền được trang trí lại sau một thời gian sử dụng.
Lời kết
Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao vô cùng hữu hiệu, nó gắn bó vô cùng mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa là ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kỹ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn lên, nhưng chắc rằng vai trò của “người bạn đường” này là không thể thay thế được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Thạch Phương, Đoàn Tứ chủ biên, Địa chí Long An, Nxb Long An- Khoa học xã hội, 1989.
2.Nhiều tác giả, Địa chí An Giang, UBND tỉnh An Giang, 2003.
3. Nhiều tác giả, Địa chí Cần Thơ, Tỉnh uỷ- UBND tỉnh Cần Thơ, 2003.
4. Thái Doãn Mười chủ biên, Địa chí Đồng Nai, tập IV, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
5. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường chủ biên, Văn hóa & cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
6. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh chủ biên, Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
7. Sơn Nam , Bến Nghé xưa, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
8. Phan Thị Yến Tuyết chủ biên, Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ, Nxb Trẻ, 2002.
9. Nguyễn Hữu Hiệp, Sông núi quê nhà, Hội Văn học nghệ thuật An Giang, 1993.
10. Nguyễn Hữu Hiệp, An Giang văn hóa một vùng đất, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
11. Huỳnh Ngọc Trảng, Vè Nam Bộ, Nxb Đồng Nai, 1998.
Nguồn: Tác giả cung cấp - theo www.vanhoahoc.vn